Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012

Giáo sư Ngô Vĩnh Long: Đồng thuận tốt nhất là đồng thuận trên nền tảng công bằng, dân chủ

SGTT.VN - Là người Việt đầu tiên nhận được học bổng đại học Harvard (1964), trong thời gian du học tại Mỹ, Ngô Vĩnh Long được tặng biệt danh “the free man” (người tự do) khi hoạt động trong phong trào đòi hoà bình. Bởi ông không là hội viên chính thức của một hội đặc biệt nào, không nhận bất cứ chức vị nào, một đồng tiền nào, để có thể tự do có tiếng nói phản biện. Tinh thần ấy vẫn nguyên vẹn khi ông là tổng giám đốc trung tâm Tài liệu Việt Nam ở Cambridge hay giảng dạy lịch sử tại đại học Maine hôm nay.


Vì sao sau khi bước chân vào đại học danh tiếng nhất nước Mỹ, con người nho nhã, thư sinh trong ông lại trở thành con người quyết liệt đấu tranh cho những vấn đề hệ trọng của dân tộc?
Thật ra đại học danh tiếng bậc nhất không có nghĩa là giáo sư và sinh viên ở đó đều giỏi. Giáo sư Harvard nổi tiếng là “không biết dạy” vì họ ỷ sinh viên đã được lựa chọn kỹ rồi, có thể tự đọc và hiểu các đống sách họ bắt đọc nên đến giờ dạy họ cứ đến giảng ào ào rồi bỏ đi, chắc là đi nghiên cứu hay làm cố vấn cho các công ty và người có quyền lực. Tôi là thằng ít học từ Việt Nam sang nên không hiểu quyền lực là gì và lại càng không hiểu cái “đặc ân” mà Harvard đã ban bố cho tôi. Tôi chỉ biết là phần lớn các giáo sư Harvard khi tôi đến đó ủng hộ chính sách của Mỹ ở Việt Nam và các nơi khác, nên tôi thấy mình có trách nhiệm nói ra những điều tôi biết và nghĩ. Giáo sư John King Fairbanks, trong chiến tranh thứ hai đứng đầu cơ quan OSS (Office of Strategic Service, tiền thân của CIA) ở Trung Quốc và được cho là ông tổ của ngành Đông Á học ở Mỹ, có khuyên tôi là nên bớt hoạt động ngay từ những tháng cuối năm 1964 khi ông thấy tôi đi hết đại học này đến đại học khác và cả các trường trung học gần như mỗi tuần để nói chuyện về tình hình Việt Nam, châu Á và chính sách của Mỹ. Ông ấy nghĩ tôi có thể trả giá rất đắt vì tôi không phải là người Mỹ và chưa có địa vị gì hết. Tôi trả lời với ông ấy rằng ông biết quan niệm “quân sư phụ” là như thế nào, nhưng chính vì Mỹ là thầy tôi và Việt Nam là cha tôi, tôi có bổn phận ngăn ngừa hai bên đi đến chỗ giết nhau. Do đó, vì hoạt động tích cực cho hoà bình và công lý, tôi ngẫu nhiên trở thành một trong những người đầu tiên gầy dựng phong trào hoà bình ở Mỹ.
Đó là trong quá khứ. Còn trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam có cơ hội như thế nào để giành được sự ủng hộ của thế giới trong bảo vệ chủ quyền biển đảo?
Những hành động càng ngày càng bất chấp phải trái và bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc đã cho dư luận thế giới thấy rõ sự ngang ngược của nước này. Đây là thời cơ hiếm có để Việt Nam cương quyết lên tiếng bảo vệ quyền lợi của đất nước cũng như an ninh của khu vực. Tiếng nói chính trực của Việt Nam nhất thiết sẽ giành được sự ủng hộ của thế giới bên ngoài và hậu thuẫn của nhân dân trong nước.
Nếu Việt Nam không nối kết việc đòi chủ quyền của mình tại hai quần đảo Trường Sa – Hoàng Sa với an ninh chung trên biển cũng như trên đất liền, quốc tế hoá hồ sơ Hoàng Sa, thì sẽ thiệt thòi rất lớn?
Vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tuy ở ngoài khơi biển Đông, rất khác với vấn đề thông thương và an ninh chung trên Biển Đông. Hoa Kỳ đã nói đi nói lại trong nhiều năm qua là họ không dính líu với việc tranh chấp chủ quyền, nhưng họ sẽ giúp bảo vệ thông thương hàng hải và an ninh chung trong khu vực. Nhưng Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm trọn Hoàng Sa và một số đảo tại quần đảo Trường Sa rồi lại tung ra cái đường chín đoạn (đường lưỡi bò) với ý định đòi “khu vực đặc quyền kinh tế” hai trăm hải lý từ các quần đảo này để chiếm hữu lãnh hải của các nước khác trong khu vực, cũng như để cấm thông thương và các hoạt động kinh tế khác ở Biển Đông. Mới đầu nhiều người tưởng đây là yêu sách huyễn hoặc, nhưng việc Trung Quốc bắt ngư dân Việt Nam và các nước khác và kêu gọi đấu thầu khai thác dầu khí trên Biển Đông cho thấy Trung Quốc cương quyết thực hiện tham vọng của họ và gây mất an ninh cho toàn khu vực. Cho nên Việt Nam phải liên tục nối kết vấn đề đòi chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với an ninh chung trên biển. Vì Trung Quốc đã đánh chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực và dùng địa thế Hoàng Sa để đe doạ an ninh chung, nên Việt Nam cần vận động dư luận thế giới để đưa Trung Quốc ra trước các toà án quốc tế. Không thể để việc đánh chiếm bằng vũ lực là chuyện đã rồi. Trường Sa cũng vậy, nên đem Trung Quốc ra trước công luận và toà án thế giới về những đảo của Việt Nam mà Trung Quốc đã chiếm bằng vũ lực.
Trong thời điểm nhiều ý nghĩa này, sự đồng lòng của toàn thể dân tộc là điều hết sức quan trọng. Theo ông, làm thế nào để hàn gắn vết thương chiến tranh và tạo điều kiện cho việc hoà hợp, hoà giải dân tộc thực sự?
Chiến tranh bất cứ ở đâu và bất cứ ở thời điểm nào cũng gây rất nhiều tương tàn và phân hoá về mọi mặt. Chiến tranh càng dài phân hoá càng cao, dẫu là chiến tranh giành lại độc lập cho đất nước. Muốn tạo điều kiện thực sự cho việc hoà hợp, hoà giải dân tộc và mở cửa cho tương lai thì nên nhìn lại quá khứ một cách trung thực và công bằng, và nên cố gắng tạo những điều kiện và cơ chế giúp cho việc dựng nên một xã hội công bằng, dân chủ, hài hoà.
Quan tâm nhiều đến các vấn đề xã hội, thời sự nóng bỏng trên thế giới và ảnh hưởng của nó đến kinh tế Việt Nam, điều gì làm ông lo lắng nhất?
Điều làm tôi lo nhất, ngay tại Mỹ và gần như khắp nơi trên thế giới, là sự bất bình đẳng càng ngày càng lớn và càng nhanh. Việc này có thể dẫn đến bất ổn định trong nhiều nước cũng như chiến tranh giữa một số nước. Tôi đã viết về điều này từ thập niên 90 thế kỷ trước, phân tích lý do tại sao “toàn cầu hoá” sẽ tạo nên bất bình đẳng càng ngày càng cao trong mỗi nước và giữa các nước. Có người đã cười tôi, có người nói thẳng vào mặt tôi trước nhiều người khác là tôi “thấy xe chữa lửa chạy qua bèn kết luận là có đám cháy ở đâu đó”. Có thể tôi quá viển vông và tôi mong rằng tôi đã sai.
Ông nhìn thấy nguy cơ nào từ tình trạng phát triển kinh tế ngày càng tập trung tiền bạc vào trong tay một số nhóm lợi ích?
Đây là trào lưu chung của nhiều nước, trong đó có các cường quốc như Hoa Kỳ, Anh, Nhật... Nhưng ở những nước quyền lực được thâu tóm trong tay một số nhóm lợi ích như ở Trung Quốc, Ai Cập, Libya... vì việc tập trung rất lớn, rất nhanh và gây bất bình đẳng rất lớn. Ở Ai Cập và Libya, tình trạng trên đã dẫn đến bạo động và chiến tranh. Ở Trung Quốc, bộ máy chính quyền còn sức rất lớn cũng như còn đủ dự trữ kinh tế để giải quyết một số vấn đề. Nhưng tôi không nghĩ “mô hình Trung Quốc” hay “đồng thuận Bắc Kinh” là giải pháp bền vững.
Đồng thuận tốt nhất là đồng thuận được xây trên nền tảng công bằng và dân chủ, để có thể giải quyết vấn nạn bất bình đẳng và bao nhiêu tệ nạn xã hội khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói một cách đơn giản về các vấn đề cốt tử của đất nước như sau: “Khó trăm bề dân liệu cũng xong”.

Theo ông, làm thế nào để đạt tới sự đồng thuận xã hội trong những vấn đề cốt tử của đất nước?
Tôi nghĩ đồng thuận tốt nhất là đồng thuận được xây trên nền tảng công bằng và dân chủ, để có thể giải quyết vấn nạn bất bình đẳng và bao nhiêu tệ nạn xã hội khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói một cách đơn giản về các vấn đề cốt tử của đất nước như sau: “Khó trăm bề dân liệu cũng xong”.
Bố ông là người Bắc Ninh, mẹ là người Huế, dắt díu nhau vào Nam kiếm sống rồi sinh ông ở Vĩnh Long, cuộc đời lưu lạc phải chăng đã khiến ông nặng lòng với quê hương, với người nông dân Việt Nam, để viết tác phẩm Trước cách mạng: nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc?
Khó mà biết cái gì đã ảnh hưởng đến nhân sinh quan hay lý tưởng của mình. Nhưng tôi chắc là ảnh hưởng của bố tôi rất lớn. Bố tôi là người có nhiều lý tưởng và đã chia hết của cải họ Ngô ở Từ Sơn và những nơi khác cho gia đình và người trong các làng để vào Nam hoạt động. Bố tôi dạy học cho các đồng đội theo cách mạng và bất cứ ai muốn học, trong khi đó thì đi hớt tóc và làm nghề nông để sống. Bố tôi bị Tây bắt năm 1950, tra tấn gần chết, xương sườn bị gãy và đâm vào phổi… Bố và tôi thường nói chuyện với nhau và tôi nhớ có lúc bố tôi chỉ các đỉnh núi và nói: “Con biết không, Montesquieu có nói là người nào ngồi trên đỉnh núi cao nhất cũng vẫn là ngồi trên mông mình con ạ. Và tục ngữ ta có câu, càng cao danh vọng càng dày gian nan”. Rồi ông cụ giảng cho tôi biết lại sao tiền tài và quyền lực không những làm cho người ta tha hoá và gây biết bao khổ đau cho người khác, mà có thể bị mất hết bất cứ lúc nào. Còn sự hiểu biết và tình thương, như ngọn lửa của những cây nến, không những toả sáng và giúp soi đường đi cho chính mình và cho người khác mà còn có thể truyền mãi về sau. Ông cụ còn luôn dặn dò tình thương là bất diệt và khi tôi trưởng thành, nếu tôi không giúp được gì cho ai thì cũng cố gắng đừng bao giờ làm ai đau khổ.
Sự đau khổ của nông dân là một trong những lý do khiến tôi viết cuốn sách Before the revolution: the Vietnamese peasants under the French (Trước cách mạng: nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc). Rồi sự đau khổ và chịu đựng của phụ nữ cũng đã là một trong những lý do thúc đẩy tôi xuất bản, năm 1973, cuốn Vietnamese women in society and revolution (Phụ nữ Việt Nam trong xã hội và cách mạng). Có hai lý do chính khiến tôi viết hai cuốn sách này: một là vì nông dân và phụ nữ là hai tầng lớp đông đảo nhất, chịu nhiều áp bức nhất, đóng các vai trò quan trọng nhất trong xã hội và cách mạng nhưng lại ít được nói đến nhất (nếu không nói cố tình phớt qua vì nhiều lý do). Hai là tôi muốn đưa ra một số nhận thức về việc nghiên cứu nông dân và phụ nữ thì nên có phương pháp gì, dùng tài liệu gì, phân tích như thế nào... Trong giới học thuật, lý do thứ hai này đã làm nhiều học giả cho rằng hai cuốn sách trên của tôi là “kinh điển” không lâu sau khi chúng được công bố. Tôi thường viết rất ngắn gọn và đơn giản, đặt rất nhiều vấn đề cho những người nghiên cứu về nông dân, nông thôn, phụ nữ. Tôi viết để đóng góp cho sự hiểu biết chung, mặc dầu đề tài có thể là các vấn đề của Việt Nam.
Muốn tạo điều kiện thực sự cho việc hoà hợp, hoà giải dân tộc và mở cửa cho tương lai thì nên nhìn lại quá khứ một cách trung thực và công bằng, và nên cố gắng tạo những điều kiện và cơ chế giúp cho việc dựng nên một xã hội công bằng, dân chủ, hài hoà.

Lý do nào ông chọn nghiệp làm thầy? Ông nghĩ gì về hình ảnh một người thầy mới?
Người thầy không chỉ đào tạo những người lao động mà còn đào tạo công dân và những con người có trách nhiệm cao với dân tộc, quốc gia và cả thế giới. Tôi nghĩ một phần do ảnh hưởng từ bố vì bố tôi cho rằng hiểu biết và tình thương là bất diệt. Sau đó tôi nghiệm ra, hiểu biết chính là biết cái gì đúng, cái gì sai, và việc này phải truyền đạt qua giáo dục. Chính bản thân tôi, trước khi sang Mỹ và trong khi chống chính sách của Mỹ ở Việt Nam hay ở nhiều nơi khác, tôi làm những việc đó vì con người nói chung chứ không phải vì dân tộc hay quốc gia nào. Tôi đã đào tạo bao thế hệ sinh viên Mỹ trên 30 năm nay trước hết là để họ “thành nhân”, tức biết tự phân tích xem cái gì đúng cái gì sai không những trong các lĩnh vực chuyên môn mà cả trong cuộc đời nói chung. Nhiều nơi trên đất Mỹ “cái học ngày nay đã hỏng rồi” (sinh viên đi học phần lớn để lấy điểm, lấy bằng, làm tiền...) nên tôi càng phải cố gắng dạy lại sinh viên của tôi từ cách đọc, cách viết, cách phân tích các vấn đề lớn nhỏ để họ có thể biết ngay đúng sai ở chỗ nào. Nếu chưa biết hay chưa kết luận được thì phải nghiên cứu và suy nghĩ thêm chứ không phải cứ lấy một đống thông tin là tưởng mình hiểu biết. Bạn bè và đồng nghiệp thường cười và nói rằng họ chẳng biết tại sao tôi cứ “luôn luôn lội ngược dòng”.
Điều gì giúp ông vượt qua những nỗi buồn nhân thế?
Nhân sinh quan của tôi rất đơn giản: tìm vui trong việc làm và cố gắng làm gì được thì làm trong khi còn sức. Còn chuyện buồn đau, trắc trở, thì ai lại không gặp?
Một vài người đã cho tôi biệt hiệu “Ngô đại nhăn”, có thể vì nhiều khi họ thấy tôi khó chịu ra mặt với những bất công hay giày xéo nhau mà nhiều người cho là bình thường.

thực hiện Kim Yến
chân dung hội hoạ Hoàng Tường

Thứ Hai, 3 tháng 9, 2012

Những cảm xúc đẹp từ "Điều còn mãi" 2012


- Đúng 14h ngày 2/9, vào thời khắc thiêng liêng của dân tộc, tiếng nhạc Quốc ca vang lên thật trang trọng và hào hùng với sự thể hiện của Dàn nhạc giao hưởng quốc gia Việt Nam, dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng Lê Phi Phi.
Sân khấu trang trọng của Điều còn mãi 2012


Đã là lần thứ 4 Điều còn mãi được tổ chức và chương trình vẫn luôn được mở đầu bằng Tiến quân ca, mang lại biết bao niềm tự hào và xúc động cho các thế hệ người Việt Nam. Như thường lệ, chương trình được mở đầu với phần Khí nhạc cùng những sáng tác nổi tiếng của các nhạc sĩ Việt Nam. Ngoài sự tham gia trình diễn của các nghệ sĩ thuộc Dàn nhạc giao hưởng quốc gia Việt Nam, Điều còn mãi năm nay còn có sự góp mặt của các nghệ sĩ nổi tiếng như violist Xuân Huy, pianist Tuấn Nam...
Tổng biên tập Báo Vietnamnet, nhà báo Bùi Sỹ Hoa đón tiếp các vị khách ngoài sảnh Nhà hát Lớn.
Dịch giả Dương Tường là một trong những vị khách đến sớm nhất.

Hoà nhạc Điều còn mãi dù mới bắt đầu được tổ chức cách đây 3 năm, nhưng đã dần trở thành một chương trình uy tín, được đông đảo người yêu nhạc đón chờ. Và năm nay, Điều còn mãi 2012 tiếp tục nhận được sự quan tâm, ủng hộ không chỉ giới chuyên môn, khán thính giả thủ đô mà còn được nhiều nhân sĩ, trí thức.

Những hình ảnh ấn tượng từ phần đầu của chương trình Điều còn mãi 2012
Nhạc trưởng Lê Phi Phi chỉ huy dàn nhạc diễn tấu bài Quốc ca. 
Sân khấu "sạch" được bài trí giản dị nhưng sang trọng, để cho âm nhạc thăng hoa.
Để chuẩn bị cho buổi diễn duy nhất này, các nghệ sĩ đã phải tập luyện trong nhiều ngày qua.
Dàn nhạc thăng hoa
Ngồi ở hàng ghế đầu, từ phải sang: Nhạc sỹ Đỗ Hồng Quân, Chủ tịch Hội Nhạc sỹ Việt Nam, ông Nguyễn Đăng Tiến, Tổng GĐ Đài tiếng nói Việt Nam, Tổng biên tập báo VietNamNet Bùi Sỹ Hoa, ông Vũ Ngọc Hoàng, Phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo TƯ, Phó Tổng biên tập báo VietNamNet Phạm Anh Tuấn, ông Lê Doãn Hợp, Chủ tịch Hội truyền thông số VN. PGS-TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam.
Nghệ sĩ sáo Thu Hương với tác phẩm "Tiếng sáo quê hương"
Phần khí nhạc đã giới thiệu những sáng tác xuất sắc của các nhạc sĩ VN. Màn trình diễn của nghệ sĩ violin Xuân Huy
Nghệ sĩ piano Huỳnh Sơn Thục Anh chơi Scherzo của nhạc sĩ Nguyễn Văn Nam

Nửa sau của chương trình như thường lệ được dành trọn cho phần Thanh nhạc. Điều còn mãi 2012 sẽ tiếp tục đón chào sự trở lại của hai giọng ca hàng đầu của dòng nhạc Cách Mạng là Đăng Dương và Trọng Tấn cùng giọng nữ cao Duyên Huyền. Lần trở lại này Đăng Dương không hát solo mà song ca bài "Trường ca Sông Lô" với giọng nữ cao Duyên Huyền.

Đăng Dương song ca cùngi Duyên Huyền bài "Trường ca sông Lô"

Ca sĩ Thanh Lam lần đầu biểu diễn trong Hòa nhạc Điều còn mãi với ca khúc nổi tiếng đã gắn liền với giọng ca của chị, "Giọt Nắng Bên Thềm". Cùng đứng chung sân khấu với Thanh Lam trong chương trình đặc biệt này là 3 gương mặt đã quá quen thuộc: Hồng Nhung, Mỹ Linh và Nguyên Thảo.
Mỹ Linh hát Quê hương anh bộ đội của nhạc sĩ Xuân Oanh


Hồng Nhung ngọt ngào với Hương Xưa của Cung Tiến


Ca sĩ Thanh Lam cháy hết mình với Giọt nắng bên thềm của nhạc sĩ Thanh Tùng

Phần Thanh nhạc được mở đầu với "Trường ca Sông Lô" của nhạc sĩ Văn Cao. Một thiên anh hùng ca trữ tình được phối khí bởi nhạc sĩ Trần Mạnh Hùng đã được thể hiện vô cùng ấn tượng qua giọng ca của hai nghệ sĩ Đăng Dương và Duyên Huyền. Trong khi đó ca sĩ Mỹ Linh gây ấn tượng với ca khúc "Quê hương anh bộ đội" của nhạc sĩ Xuân Oanh với chất giọng cao và khỏe hiếm có. Mỗi lần trình diễn trên sân khấu Điều còn mãi, nữ ca sĩ Hà Nội đều tạo được dấu ấn riêng trong từng ca khúc.
Trọng Tấn thể hiện mượt mà tác phẩm "Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa"


Ca sĩ Trọng Tấn tái xuất với hai ca khúc: "Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa" của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý và "Hồi tưởng" của nhạc sĩ Hoàng Vân. Diva Hồng Nhung thì nhẹ nhàng và sâu lắng với ca khúc "Hương xưa" của nhạc sĩ Cung Tiến. Một trong những phần biểu diễn được chờ đợi nhất được nhạc sĩ, Giám đốc nghệ thuật Dương Thụ sắp xếp ở gàn cuối chương trình. Diva Thanh Lam lần đầu đến với sân khấu Điều còn mãi với ca khúc "Giọt nắng bên thềm" của nhạc sĩ Thanh Tùng.
Ca sĩ Nguyên Thảo hát Tình ca của nhạc sĩ Phạm Duy


Bài "Tình ca" nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy được dành cho ca sĩ Nguyên Thảo và cô đã không làm khán giả phải thất vọng.
 
Chương trình kết thúc với Hồi tưởng của nhạc sĩ Hoàng Vân

Tổng biên tập báo VietNamNet Bùi Sỹ Hoa tặng hoa cho các nghệ sĩ tham gia chương trình.


Hòa nhạc Điều còn mãi 2012 khép lại với Hồi tưởng hùng tráng của nhạc sĩ Hoàng Vân sau hơn 2 giờ đồng hồ đã để lại những dư vị âm nhạc ngọt ngào trong lòng công chúng yêu nhạc Việt Nam.

Hòa nhạc VietNamNet "Điều còn mãi" được truyền hình trực tiếp trên kênh VTV1 vào lúc 14h00 ngày 2/9/2012. “Điều còn mãi” được tài trợ bởi Ngân hàng thương mại thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam Eximbank (Nhà tài trợ Vàng), tập đoàn Vingroup (Nhà tài trợ Bạc), Tổng Công ty  cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn Sabeco (Nhà tài trợ Đồng) và công ty Cổ phần Truyền thông VMG (Đồng tài trợ).


Hoàng Vy
Ảnh: Lê Anh Dũng

Thứ Ba, 28 tháng 8, 2012

Ngài Alexandre Gustave Eiffel

image


Ngày 10-10-1889, khi tới thăm Tháp Eiffel, nhà phát minh trứ danh người Mỹ Thomas Edison đã viết vào sổ vàng lưu niệm ở đây những lời lẽ trân trọng đến mức tưởng như không còn gì đáng trân trọng hơn:

Xin gửi tới Ngài Eiffel,
Công Trình Sư dũng cảm đã xây dựng nên mô hình khổng lồ và kỳ diệu của công nghệ hiện đại,
lòng kính trọng và sự ngưỡng mộ cao nhất của tôi dành cho tất cả các kỹ sư (đã tham gia xây dựng Tháp),
bao gồm Ngài Kỹ Sư Vĩ Đại.
Vị Chúa Tốt Lành,

Ký tên: Thomas Edison.

Sự trân trọng tột cùng đó hoàn toàn xứng đáng với một con người không chỉ tạo ra một Tháp Eiffel huyền thoại, mà còn là đồng tác giả của Tượng Nữ Thần tự Do bất hủ ở Mỹ, và là tác giả của hàng chục công trình sắt thép khổng lồ nổi tiếng khác trên khắp thế giới, trong đó có Cầu Long Biên ở Hànội, Cầu Tràng Tiền ở Huế và Kết Cấu Nhà Bưu Điện Sàigòn.
image
Cầu Long Biên đầu thế kỷ 20


image
Cầu Tràng Tiền, Huế (ảnh mới chụp gần đây)

image
Nhà Bưu Điện Sàigòn bên ngoài và bên trong (ảnh 2001)

Nhưng cuộc sống đôi khi rất nghịch lý: Người đời thường để ý đến công trình của ông nhiều hơn chính bản thân ông.
Năm 1889, khi chứng kiến đám đông nườm nượp kéo đến chiêm ngưỡng chiếc Tháp Eiffel, tác giả của chiếc Tháp đã phải thốt lên: "Tôi phát ghen lên với nó, vì nó còn nổi tiếng hơn tôi!".

Trong bài báo "Gustave Eiffel: The Man Behind The Masterpiece" (Gustave Eiffel: Người đứng sau công trình kiệt tác), Karen Plumley viết:
"Mặc dù Eiffel tự hào với cái Tháp huyền thoại mang tên ông, nhưng ông thường cảm thấy chính huyền thoại đó lại cản trở công chúng biết đến ông hơn như một kỹ sư và nhà nghiên cứu tài ba. Khi Eiffel lấy tên mình để đặt cho ngọn Tháp, đó là một biểu hiện chính đáng của lòng kiêu hãnh, nhưng rồi chính ông phải lấy làm ân hận. Trải qua thời gian, cái tên đó và công trình đó hợp nhất làm một, trong khi tác giả đứng đằng sau công trình bất hủ đó thì dần dần bị quên lãng trong bóng tối của chính công trình sáng tạo của mình".

image
Cầu Long Biên, một tác phẩm của Eiffel, một trong những dấu ấn biểu tượng của Hànội

Vậy thiết tưởng đã đến lúc chúng ta phải biết rõ Alexandre Gustave Eiffel (1832-1923), người đã để lại trên thế gian này những kỳ đài bất hủ không thể nào quên, và đặc biệt đã để lại trên đất Việt Nam của chúng ta một kiệt tác về kết cấu và nghệ thuật – Cầu Long Biên Hànội, một "con rồng của Thăng Long" trong thế kỷ 20.

Một Gustave Eiffel đa tài và lãng mạn:

image



Alexandre Gustave Eiffel sinh ngày 15-12-1832 tại Dijon, Pháp. Là một người đa tài, làm nhiều việc, giỏi nhiều nghề, nhưng ông nổi danh với tư cách một kỹ sư tài ba về kết cấu thép và nền móng. Tuy nghề nghiệp luôn đòi hỏi những tính toán chính xác đến mức khắt khe, bản tính ông lại rất lãng mạn, thích tự do phóng khoáng, không chấp nhận sự gò bó áp đặt, thích sống theo hứng thú của bản thân, ngưỡng mộ văn chương cổ điển, ngốn ngấu đọc Voltaire, Zola, Hugo, và nhiều tác giả khác.

Với bản tính đó, Eiffel là người sống đầy nhiệt huyết, hăng say hoạt động trên nhiều lĩnh vực: Vừa là một công trình sư bậc thầy, vừa là một nhà doanh nghiệp lớn, vừa là một nhà nghiên cứu khoa học: Ngoài những công trình bằng xương bằng thịt mà ai cũng thấy, ông đã để lại cho đời 31 cuốn sách và rất nhiều bài khảo cứu về kết cấu công trình và kết cấu nền móng. Ông được coi là vua – nhà tiên phong – trong lĩnh vực kết cấu thép. Nhiều phương pháp xử lý kết cấu của ông đến nay vẫn được áp dụng và đã trở thành kinh điển.
Làm việc phi thường nhưng Eiffel được ông Trời ban cho một sức khoẻ hiếm có: Ngoài 80 tuổi vẫn bơi khoẻ, đấu kiếm tốt, mãi đến năm 1923 mới mất, thọ 91 tuổi. Hiếm có một danh nhân, một nhân vật nào đạt tới vinh quang tột đỉnh lại có tuổi thọ cao đến thế! Ông được người đời kính trọng và yêu mến, phần thưởng danh dự do các chính phủ trên thế giới trao tặng cho ông nhiều đến mức không đếm xuể.

Tính cách năng động, tháo vát, thông minh, nhanh nhạy của Eiffel không làm ta ngạc nhiên nếu ta biết rõ nguồn gốc xuất thân của ông: Ông nội của Eiffel từng dựng nên một doanh nghiệp sản xuất thảm rất giầu có tại Pháp, đem lại một đời sống tiện nghi cho nhiều thế hệ trong dòng họ Eiffel.

image

Cha của Eiffel tham gia quân đội Napoléon Bonaparte từ năm 16 tuổi. Mẹ của Eiffel là một phụ nữ rất thông minh tháo vát. Bà có một cái đầu sắc sảo trong buôn bán. Bà không những lo lắng chăm sóc cậu con trai trong việc học hành lúc nhỏ, mà còn tạo dựng nên hai doanh nghiệp lớn, một về cung ứng than và một về cung ứng hàng hoá đường biển, cả hai đều làm ăn phát đạt. Sau này chính bà đã giúp Eiffel tạo dựng nên một doanh nghiệp riêng. Hai mẹ con gắn bó yêu thương nhau suốt đời.

Năm 1862, tròn 30 tuổi, Eiffel thành hôn với cô Marie Guadelet, cháu của Edouard Régneau, một nhà ủ rượu bia nổi tiếng. Hai vợ chồng sống với nhau được 15 năm hạnh phúc, sinh được 5 người con, trước khi Marie mắc chứng viêm phổi rồi mất năm 1887. Đau đớn vì sự ra đi của vợ, Eiffel sống độc thân trong 36 năm còn lại, không hề đi bước nữa.
Trong thời trẻ, Eiffel chiụ ảnh hưởng nhiều nhất bởi hai người: Một là ông chú Jean-Baptiste Mollerat, một nhà hoá học thành đạt, người đã phát minh ra quy trình chưng cất giấm từ thùng gỗ; Hai là Michel Perret, một nhà hoá học khác trong vùng. Cả hai nhà hoá học này dành rất nhiều thời gian chuyện trò với Eiffel, nhồi nhét vào đầu cậu bé hàng đống tư tưởng, từ chuyện hoá học, khai thác hầm mỏ cho tới chuyện tôn giáo và triết học.
Ông chú Mollerat không chỉ là một người đàn ông đáng kính về khoa học, mà còn là một người có tư tưởng cộng hoà mạnh mẽ. Có lần ông nói với Eiffel: "Này con trai, cháu hãy nhớ rằng tất cả bọn vua chúa đều là đồ xấu xa!". Câu nói này có thể gây tổn thương đối với cha mẹ Eiffel, bởi dẫu sao cha Eiffel cũng đã từng phục vụ dưới triều đại Napoléon – vị hoàng đế lừng danh thế giới. Tuy nhiên, tư tưởng của ông chú đã dần dần ảnh hưởng đến Eiffel, biến Eiffel thành một người có thiên hướng cộng hoà. Thiên hướng này đã có dịp biểu lộ rõ rệt khi cậu bé trưởng thành: Eiffel trở thành một đồng tác giả không thể thiếu của Tượng Nữ Thần Tự Do.

Thủa cắp sách tới trường, Eiffel là một cậu bé đặc biệt thông minh và tò mò, nhưng không chuyên cần lắm. Tại trường Lycée Royal (Trung Học Hoàng Gia), cậu cảm thấy các môn học ở đó nói chung nhàm chán, buồn tẻ, không khí nhà trường tù hãm, đến lớp chỉ phí thời gian. Mãi đến hai năm cuối phổ thông Eiffel mới tìm thấy sở thích của mình, nhưng không phải trong các môn kỹ thuật hoặc công nghệ, mà là lịch sử và văn chương! Từ đó Eiffel mới thật sự thích học, kết quả học tập của cậu được cải thiện rõ rệt và cuối cùng Eiffel đã tốt nghiệp trung học xuất sắc trong cả các môn nhân văn lẫn khoa học.

Sau khi tốt nghiệp trung học Eiffel lên Paris, theo học tại Collège Sainte Barbé để luyện thi vào École Polytechnique – trường Đại Học Bách Khoa nổi tiếng thế giới. Nhưng chàng sinh viên bản tính lãng mạn không thể kìm nén được tình yêu say đắm đối với Paris hoa lệ. Anh dành hầu hết thì giờ rỗi để bơi lội trên Sông Seine, thăm Bảo Tàng Louvre, đi xem kịch tại Nhà Hát Opera. Kết quả là anh không chuẩn bị đủ kiến thức cho kỳ thi vào Đại Học Bách Khoa. Anh thi trượt, nhưng không hề lãng phí thì giờ vào việc buồn nản, mà lại thi ngay vào École Centrale des Arts et Manufactures, một dạng trường bách khoa khác, có xu hướng tự do cởi mở hơn, và được đánh giá là một trong những trường đào tạo kỹ thuật và công nghệ hàng đầu Châu Âu thời bấy giờ.

Đến lúc đó Eiffel vẫn tuyên bố hoá học là mục tiêu chủ yếu của đời ông. Ông chú Mollerat cũng hứa sẽ dành cho nhà hoá học tương lai một chỗ làm tại những trung tâm sản xuất giấm của ông ở Dijon. Tuy nhiên, năm 1855, gần đến lúc Eiffel lĩnh bằng tốt nghiệp thì xẩy ra chuyện xích mích giữa cha mẹ Eiffel với ông chú. Hai bên nặng mặt với nhau, hậu quả là lời hứa của ông chú về chỗ làm dành cho Eiffel cũng bị huỷ bỏ, Eiffel phải tìm một định hướng mới cho tương lai.

Người thông minh làm gì cũng thông minh:

Quả là "trong cái rủi có cái may", việc thất hứa của ông chú lại dẫn Eiffel tới một bước ngoặt: Thay vì trở thành nhà hoá học, ông lại kiếm được một chân quản lý dự án xây dựng cầu đường sắt trong công ty kỹ thuật của Charles Nepveu thuộc Hội Kỹ Thuật Dân Sự Pháp. Chẳng bao lâu sau, công ty Nepveu vỡ nợ, một công ty của Bỉ mua lại công ty này, sự nghiệp của Eiffel tưởng chừng gặp cơn bĩ cực nhưng hoá ra lại đến ngày thái lai: Ông chủ mới thuê luôn Eiffel làm việc với tư cách trưởng nhóm nghiên cứu kỹ thuật của công ty.

Tại Việt Nam những năm 1950-1960, một chuyên gia nổi tiếng về kết cấu và nền móng là kỹ sư Phạm Đình Biều thường tâm sự với học trò của ông rằng chuyện "cải nghiệp" của Eiffel dạy chúng ta 2 bài học: Một, người thông minh làm gì cũng thông minh. Hai, người trí thức chân chính và thực sự có tài phải là người có khả năng tự học, tự nghiên cứu. Một nền giáo dục tốt không phải là nền giáo dục chỉ lo nhồi nhét kiến thức hàn lâm cho học trò, mà quan trọng nhất là phải biết gợi mở để học trò say mê môn học, từ đó họ có thể tự học, tự nghiên cứu. Một nhà sư phạm không hiểu điều này sẽ không bao giờ hiểu được tại sao một người được đào tạo thuần tuý về hoá học như Eiffel lại có thể trở thành một kỹ sư kết cấu bậc thầy, không cần qua một trường đào tạo chuyên môn về xây dựng và kết cấu nào cả. Niềm say mê tự học có giá trị gấp hàng trăm lần so với lối học khoa cử chỉ cốt giành giật bằng cấp và danh vọng.

image

Trở lại Eiffel, năm 1858, ông đã tạo nên một "cú" đột phá đầu tiên trong đời: Ông được giao trách nhiệm xây dựng một chiếc cầu bằng thép vượt qua sông Garonne gần thành phố Bordeaux, dài khoảng 500m, và chỉ sau 2 năm công trình đã được hoàn thành mỹ mãn, gây một tiếng vang lớn trong giới chuyên môn cầu cống! Chính trong dịp này Eiffel đã có một phát minh kỹ thuật nổi tiếng – sáng tạo nên Hệ nén thuỷ lực (một hệ thống máy vận hành nhờ nước, hơi nước và khí nén) – cho phép đóng các vật liệu làm nền móng sâu xuống lòng đất tới 25m. Nhờ đó, không những công trình được khánh thành đúng thời hạn mà còn làm cho Eiffel nổi danh như một nhà phát minh và một kỹ sư tài ba.

Năm 1864, lúc này đã có vợ và cư trú tại Paris, với sự giúp đỡ của bà mẹ, Eiffel cho ra đời công ty riêng của mình. Trong 20 năm tiếp theo Eiffel đã phát triển và hoàn thiện hàng loạt phương pháp kỹ thuật mới và áp dụng ngay những phương pháp đó vào trong những công trình của mình. Chẳng hạn, trong khi thiết kế gian đầu tiên cho Palais des Machines (Gian trưng bầy máy móc) của Triển Lãm Quốc Tế Paris năm 1878, Eiffel đã tạo ra những hệ vì kèo và vòm mái thép cứng hơn nhưng lại nhẹ hơn. Cấu trúc mới này có hình dạng như những mạng lưới vừa rất đẹp mắt vừa có sức chịu đựng rất lớn, bất chấp gió bão.

Một trong những dự án lớn của Công Ty Eiffel là xây dựng chiếc cầu Sioule, cao 80m so với mặt sông Sioule, đạt kỷ lục một trong những chiếc cầu cao nhất thời bấy giờ. Dự án này cho phép Eiffel thử nghiệm ba sáng kiến mà sau này ông đã áp dụng vào việc xây dựng Tháp Eiffel: Sử dụng loại thép có chạm trổ thay cho loại thép nặng, giòn, dễ vỡ thường vẫn được sử dụng thời đó. Ông khám phá ra rằng thép chạm trổ cứng hơn, dẻo dai hơn, chịu đựng được những cơn gió mạnh tốt hơn. Ông cho uốn cong bờ mép của những chân cột móng mà trước đó thường là hình vuông hoặc hình chữ nhật, do đó móng được ổn định hơn và bền hơn. Ông phát triển một hệ thống được gọi là "launching" trông như một cái cưa khổng lồ, trong đó sử dụng những bộ phận cân bằng cho phép dịch chuyển các cấu kiện riêng lẻ một cách dễ dàng hơn vào đúng vị trí cần thiết trong công trình.

Cứ như thế, danh tiếng của Eiffel càng ngày càng tăng lên theo danh mục các dự án của ông: Những chiếc cầu lắp ghép làm sẵn cho quân đội hành quân, Cửa hàng Bon Marché nổi tiếng ở Paris, giàn khung Nhà Thờ Đức Bà Paris, và khung thép Tượng Nữ Thần tự Do – công trình tuyệt tác trước khi ra đời Tháp Eiffel huyền thoại của ông.

Tượng Nữ Thần tự Do:

image
Tượng Nữ Thần Tự Do với tên đầy đủ là Tự Do Soi Sáng Thế Giới (La liberté éclairant le monde/Liberty Enlightening the World), là một món quà đặc biệt của nước Pháp dành tặng nước Mỹ nhân dịp kỷ niệm tròn 100 năm ngày nước Mỹ tuyên bố độc lập (thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Anh).

Cách Mạng Pháp 1789 là ngọn cờ thúc đẩy tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái lan rộng ở Pháp rồi ra toàn thế giới trong suốt những năm tháng tiếp theo. Một trong những người Pháp đi tiên phong trong trào lưu này là Édouard René Lefèvre de Laboulaye, một nhà chính trị kiêm nhà văn chuyên viết về lịch sử Mỹ. Chính ông là người đề xuất ý tưởng tặng nước Mỹ một món quà để ca ngợi nền tự do. Ý tưởng của ông lập tức được chính phủ Pháp ủng hộ, và việc thiết kế mỹ thuật được giao cho nhà tạc tượng trứ danh Frédéric-Auguste Bartholdi.

Bartholdi đã thiết kế nên hình ảnh một phụ nữ khoẻ mạnh có nét đẹp kinh điển như những bức tượng Hy Lạp cổ đại với kích thước khổng lồ ở tư thế đứng thẳng, đầu đội vương miện với 7 tia hào quang toả ra tượng trưng cho 7 biển và lục địa trên trái đất, tay trái mang một phiến đá ghi dòng chữ "JULY IV MDCCLXXVI", tức là "Tháng Bẩy, Ngày 4 Năm 1776" (ngày độc lập của Mỹ), tay phải giương cao bó đuốc của tự do, thân mặc tấm áo choàng phủ kín tới chân.
Nhưng ngay lập tức Bartholdi phải đối mặt với 2 bài toán nan giải:

• Làm thế nào để bức tượng khổng lồ có thể tháo rời ra từng bộ phận để chuyên chở sang Mỹ?

• Bức tượng sẽ được dựng trên Đảo Tự Do trong Cảng New York, vậy phải làm thế nào để nó chịu đựng được gió bão rất mạnh ngoài biển Đại Tây Dương?
Người thích hợp nhất có thể giúp Bartholdi giải 2 bài toán hóc búa đó không thể là ai khác Gustave Eiffel!

Tượng Nữ Thần Tự Do trên Đảo Tự Do, Cảng New York, biểu tượng nổi tiếng của nước Mỹ

image

Vào thời điểm này, tên tuổi Eiffel đã được nhiều người biết đến như một công trình sư tài ba từng xây dựng nên những công trình khổng lồ có kết cấu phức tạp và chắc chắn, vì thế ông được mời giúp Bartholdi xây dựng Tượng Nữ Thần tự Do. Ngay lập tức Eiffel hưởng ứng và bắt tay vào việc.

Trước hết, bài toán thứ nhất được giải bằng cách "cắt rời thân thể" Nữ Thần Tự Do ra làm 350 mảnh rồi chất lên chiếc thuyền buồm mang tên Isère để chở sang Mỹ. Tới Mỹ, nó được đưa lên một hòn đảo có tên là Đảo Tự Do (Liberty Island) ở cửa sông Hudson nhìn ra cảng New York (New York Harbour).

Để giải bài toán thứ hai, Eiffel xây dựng một hệ thống cốt sắt làm cốt lõi bên trong để lắp ghép 350 mảnh đồng, tạo nên một bức tượng cao 46m, nặng tổng cộng 204 tấn, đứng trên một bệ cao 45,7m (bệ do người Mỹ xây dựng). Riêng cánh tay giơ bó đuốc đã dài tới 12m, ngón trỏ dài 2,4m, cái đầu tính từ cằm tới vuơng miện cao 5m, riêng cái miệng rộng 1m. Ngày nay du khách tới thăm bức tượng sẽ phải leo 354 bậc thang để lên tới vương miện. Bản thân vương miện là một "gian phòng" rộng với 25 cửa sổ, trông từ xa như 25 viên đá quý cài trên vương miện. Tổng cộng bức tượng bao gồm 31 tấn đồng và 125 tấn thép. Các tấm đồng làm bề mặt bức tượng có chiều dày 2,37 mm, được ghép với nhau sao cho cách ly với khung thép bằng những tấm cách điện để tránh hiệu ứng pin kim loại làm rỉ chỗ ghép do hơi nước biển gây nên.

image

Mặc dù được hai tài năng xuất chúng là Bartholdi và Eiffel phối hợp thực hiện, dự án này vẫn không thể nào hoàn thành kịp thời hạn kỷ niệm 100 năm nước Mỹ độc lập (1876), mà phải đợi tới mười năm sau, tức 1886, Tượng Nữ Thần Tự Do mới được tổng thống Mỹ Groover Cleveland chính thức cắt băng khánh thành.
Trong bài báo "Gustave Eiffel: The Man Behind The Masterpiece" (Gustave Eiffel: Người đứng sau tác phẩm bậc thầy), ký giả Karen Plumley viết: "Eiffel dựng một khung thép để gắn các tấm kim loại vào đó, và đặt nhiều chùm thép thẳng đứng cắm sâu vào trong bệ đá granite của nền móng để giữ cho bức tượng khổng lồ đứng vững. Kết quả là có một bức tượng nhẹ hơn (so với tượng đặc) nhưng vẫn đảm bảo chắc chắn, có khả năng chịu đựng được một tải trọng khổng lồ và hàng loạt tác động khắc nghiệt khác. Một lần nữa, Eiffel đã chứng minh khả năng của ông trong việc giải quyết những bài toán kỹ thuật phức tạp và khó khăn nhất, trong đó sử dụng những kỹ thuật mà trước đó không ai dám làm".
Bách khoa toàn thư Wikipedia cho rằng thiết kế kết cấu của Eiffel là điều kiện không thể thiếu để biến dự án Tượng Nữ Thần Tự Do khổng lồ thành hiện thực.

image

Kể từ 1886, kiệt tác văn hoá này nhanh chóng trở thành biểu tượng quốc gia của nền tự do ở Mỹ, đem lại niềm kiêu hãnh cho người Mỹ, trở thành một tâm điểm thu hút khách du lịch và di dân từ khắp thế giới đến Mỹ, thúc đẩy nền kinh tế ở đây phát triển mạnh mẽ chưa từng có [Một số người Mỹ sống ở Pháp rất hài lòng với món quà mà người Pháp đã dành tặng cho đất nước họ, vì thế họ trả ơn người Pháp bằng cách xây dựng một phiên bản Tượng Nữ Thần Tự Do ở Pháp. Phiên bản này cũng bằng đồng, cao 11m (khoảng ¼ bức tượng ở New York) đã được dựng lên tại hòn đảo Thiên Nga cách Tháp Eiffel khoảng 2km về phía bắc. Tại Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20, cũng từng xuất hiện một phiên bản Tượng Nữ Thần Tự Do với kích thước nhỏ cao 2,85m, dân gian gọi là "Tượng Bà Đầm Xoè", lúc đầu được triển lãm trong Hội Chợ Đấu Xảo Hànội (Cung văn hoá hữu nghị hiện nay), sau được chuyển về Vườn Hoa Chí Linh (vườn hoa trước cửa Ngân Hàng Trung Ương hiện nay), sau đó đã được đặt trên nóc Tháp Rùa, rồi lại chuyển về Vườn Hoa Cửa Nam, cuối cùng bị giật đổ ngày 01-08-1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, vì bị coi là biểu tượng của nhà nước thuộc địa].

Bước sang năm 1887, chưa kịp nghỉ ngơi nhấm nháp vinh quang do Tượng Nữ Thần tự Do mang lại, Eiffel đã gặp cảnh "hoạ vô đơn chí": Vợ ông mắc bệnh nặng và ra đi vĩnh viễn. Nỗi đau chia tay người vợ yêu thương chưa kịp hồi phục thì một tai hoạ thứ hai giáng lên đầu ông, liên quan đến việc làm ăn với Công Ty Kênh Đào Panama của Pháp do Ferdinand de Lesseps lãnh đạo.

Theo hợp đồng ký kết với công ty Lesseps, Công ty Eiffel tiến hành thiết kế và xây dựng những chốt khoá đóng mở cho kênh đào này. Nhưng không may, do quản lý kém, công ty Lesseps bị vỡ nợ, làm trắng tay hàng trăm ngàn nhà đầu tư Pháp. Một cuộc điều tra được mở ra, trong đó tất cả những ai dính líu đến việc sử dụng nguồn vốn đầu tư đều bị luật pháp hỏi thăm, Eiffel không phải là ngoại lệ... Nếu bị kết án, ông có thể sẽ phải đối mặt với một bản án tù ít nhất 2 năm. Nhưng sau 5 năm điều tra, Eiffel được chứng minh là vô can. Tuy vậy, cuộc điều tra đã làm ông mệt mỏi, dẫn tới quyết định về hưu vào năm 1893, khi ông đương chức chủ tịch hội đồng quản trị công ty.

Nhưng trong hoạn nạn mới rõ mặt anh hùng: Chính trong những ngày tháng mệt mỏi nhất vì phải đối mặt với cuộc điều tra, Eiffel đã làm nên công trình huyền thoại của đời mình - Tháp Eiffel!

Huyền thoại Eiffel:

image

Để kỷ niệm 100 năm Cách Mạng Pháp (1789 – 1889), nhà nước Pháp quyết định tổ chức Hội Chợ Triển Lãm Quốc Tế tại Paris vào năm 1889, với một cổng chào kiểu vòng cung khổng lồ bằng sắt thép sẽ được dựng trên Quảng Trường Tháng Ba (Champs de Mars) bên bờ sống Seine, nhằm phô trương sức mạnh công nghiệp và khoa học kỹ thuật của nước Pháp với thế giới. Trong 700 đề án thiết kế dự thi, đề án của Gustave Eiffel được chấp thuận vì nó đẹp nhất, chắc chắn nhất, rẻ nhất.

Khởi công từ giữa năm 1887, khánh thánh giữa năm 1889, Tháp Eiffel trở thành ngọn tháp cao nhất thế giới vào thời điểm đó (324m), trong đó phải huy động tới 300 công nhân lắp ghép 18038 cấu kiện sắt thép với 2 triệu rưỡi đinh rivets.
Lúc đầu, việc xây dựng Tháp bị công chúng phản đối dữ dội, vì bị coi là chướng mắt, kỳ quái, phá hỏng vẻ đẹp truyền thống cổ kính của Paris hoa lệ. Một trong những người phản đối mạnh nhất là nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant. Nhà văn này tuyên bố ông sẽ thường xuyên leo lên Tháp Eiffel để ăn trưa, làm mọi người sửng sốt không hiểu. Khi được hỏi tại sao, Maupassant trả lời: "Vì đó là cách tốt nhất để không nhìn thấy cái chướng mắt do Tháp Eiffel gây ra".

image

Nhưng ngay từ những ngày đầu mở cửa cho khách vào xem, Tháp Eiffel đã thu hút nườm nượp người đến Paris. Riêng năm 1889 đã có gần 2 triệu khách đến tham quan, đạt kỷ lục về du lịch trên thế giới vào thời điểm bấy giờ. Từ đó đến nay Tháp Eiffel càng ngày càng nổi tiếng. Tính đến 2002, tổng số khách du lịch tới thăm kể từ ngày khánh thành đã lên tới hơn 200 triệu người, mang lại cho nước Pháp một lợi nhuận kếch xù, vượt quá mọi dự tính lúc ban đầu. Riêng năm 2006 vừa qua, số khách tới thăm đạt mức kỷ lục: 6.719.200 người, tiếp tục giữ kỷ lục du lịch của các công trình xây dựng trên thế giới.
Nhưng vượt lên trên nguồn lợi kinh tế, Tháp Eiffel đã trở thành biểu tượng kiêu hãnh của nước Pháp nói chung và của Paris nói riêng. Trong thế kỷ 20, rất nhiều tháp khác cao hơn Tháp Eiffel đã được dựng lên trên thế giới, nhưng không có một tháp nào có thể sánh nổi với Tháp Eiffel về vẻ đẹp và sự nổi tiếng. Người Pháp tự hào vì nó, người nước ngoài háo hức muốn được diện kiến nó. Người ta truyền tụng nhau: "Đến Paris mà chưa đến Tháp Eiffel thì cũng coi như chưa đến!".

Vậy mà có một kẻ muốn đánh sập Tháp Eiffel, đó là Adolf Hitler!

image



Ngày 23-08-1944, liệu chừng sẽ phải rút khỏi Paris vì không chống đỡ nổi các mũi tấn công của đồng minh, Hitler ra lệnh cho Dietrich von Choltitz, tổng chỉ huy quân đội Đức tại Paris:"Không được để Paris rơi vào tay kẻ thù, trừ khi nó đã hoàn toàn trở thành một đống gạch vụn!". Nhưng không hiểu sao, Choltitz không tuân lệnh chủ, rút lui khỏi Paris mà không phá huỷ. Tại sao Choltitz hành xử như vậy? Có nhiều giải thích trái ngược. Đây là một dấu hỏi còn bỏ ngỏ của lịch sử.

Lẽ ra thì Hitler cũng chẳng có dịp diện kiến Tháp Eiffel, vì theo kế hoạch ban đầu, Tháp chỉ được phép tồn tại trong 20 năm, nghĩa là đến 1909 sẽ phải tháo dỡ. Thực ra Eiffel đã thiết kế sao cho Tháp có thể dễ dàng tháo dỡ ngay sau khi Hội Chợ Triển Lãm 1889 kết thúc. Nhưng như chúng ta đã thấy: Nó không bị tháo dỡ và đã tồn tại cho đến ngày nay! Tại sao vậy? Đơn giản vì nó đã trở thành niềm kiêu hãnh của nước Pháp, đem lại uy tín khoa học kỹ thuật và ích lợi kinh tế cho nước Pháp vượt quá sự mong đợi.

image

Ngày nay người ta không thể hình dung một Paris không có Tháp Eiffel. Trái ngược với giới văn nghệ sĩ cuối thế kỷ 19, các nhà văn, nhà thơ, hoạ sĩ ngày nay đã lấy Tháp Eiffel làm nguồn cảm hứng để sáng tác. Tháp Eiffel đã trở thành một huyền thoại! Gần đây, nó đã cùng với Tượng Nữ Thần Tự Do lọt vào danh sách 20 công trình cuối cùng được đề cử trong cuộc bình chọn 7 kỳ quan mới của thế giới do tổ chức phi lợi nhuận NOWC (New Open World Corporation) tổ chức (kết quả bình chọn cuối cùng đã được công bố ngày 07-07-2007 tại Lisbon, Bồ Đào Nha).

Trong 30 năm cuối đời, Eiffel sống và làm việc trong cái tháp mang tên ông theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Ông đã tìm cách tận dụng chiếc Tháp vào những mục đích mang lại lợi ích thiết thực: Ông xây dựng trạm quan sát thiên văn, phòng thí nghiệm thủy động lực học và phòng nghiên cứu thông tin liên lạc ngay trên các tầng của Tháp. Ông đắm mình trong những phòng nghiên cứu đó, cống hiến hết sức mình cho những nghiên cứu mới lạ cho đến hơi thở cuối cùng. Cũng chính trong những năm tháng này, ông đã thiết kế Cầu Long Biên Hànội, Cầu Tràng Tiền Huế, và Nhà Bưu Điện Sàigòn.

Kết:

Ngày 27-12-1923, Eiffel ra đi một cách nhẹ nhàng tại nhà riêng, thọ 91 tuổi.
Đối với chúng ta, những người Việt Nam, tên tuổi Eiffel sẽ mãi mãi được ghi nhớ không chỉ như một công trình sư lỗi lạc đã để lại cho nhân loại những kỳ đài kiệt tác, mà còn là cha đẻ của những công trình đã trở thành dấu ấn ba miền của đất nước: Cầu Long Biên Hànội, Cầu Tràng Tiền Huế và Nhà Bưu Điện Sàigòn.
Bài viết này xin được thay cho một nén hương tưởng nhớ ông.

Thêm một tập sách khẳng định chủ quyền biển đảo Việt Nam


GNO - Đó là tập Địa dư đồ khảo (tài liệu lịch sử nằm trong tủ sách quý của gia đình Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn) đã được Ban Văn hóa T.Ư GHPGVN tổ chức công bố sáng nay, 28-8-2012, tại tòa soạn Báo Giác Ngộ (TP.HCM).
Buổi công bố có sự tham dự của HT.Thích Trung Hậu, Trưởng ban Văn hóa T.Ư GHPGVN cùng nhiều học giả, nhà nghiên cứu hàng đầu VN và ở nước ngoài như: GS.TS Trần Văn Khê, GS.Cao Huy Thuần, GS.TS Lê Mạnh Thát, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Thuần…
Dia du do khao01.JPG
Rất đông học giả, nhà nghiên cứu quan tâm tham dự - Ảnh: Bảo Toàn
Dia du do khao02.JPG
HT.Thích Trung Hậu phát biểu khai mạc. Hòa thượng cho rằng, tinh thần nhập thế của đạo Phật,
cùng với chủ trương Đạo pháp gắn liền với Dân tộc, nên việc tìm hiểu, công bố các cứ liệu lịch sử để đấu tranh
về chủ quyền dân tộc là việc làm cần phát huy của mỗi người con Phật - Ảnh: B.Toàn
Theo đó, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn cho biết, Địa dư đồ khảo do nhà Thanh xuất bản, thời kỳ đầu triều Quang Tự (1875-1908) tại Trung Quốc. Ở Việt Nam, cụ Trần Đình Bá (1867-1933) lúc làm Thượng thư Bộ Hình triều Khải Định (1916-1925) đã cho sao chép lại cất vào tủ sách Phước Trang ở tư thất (hiện nay mang số 114 Mai Thúc Loan, TP.Huế).
Tập sách truyền đến đời thứ 4 là nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn thừa kế, di chuyển vào Sài Gòn từ năm 1968, lưu giữ tại nhà số 128 Đinh Tiên Hoàng (Q.1, TP.HCM).
Địa dư đồ khảo viết trên giấy xuyến tốt (rộng 16cm, dài 27cm) ghi nhận sao y bản chính với tổng cộng 65 tờ viết chữ Nho hai mặt, gồm 20 mục khảo cứu về địa dư và 20 bản đồ đính kèm.
Cụ thể, tập sách khảo cứu về 7 tỉnh của Trung Quốc, các nước có chung biên giới (trong đó có Việt Nam, phần Việt Nam, Tiêm La, Miến Điện khảo lược (có bản đồ), Phụ đính An Nam Đông Kinh toàn đồ và các khu vực lớn chung quanh Trung Quốc.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn cho biết, Địa dư đồ khảo rõ ràng, chính thức xác nhận Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) là biên giới cuối cùng của lục địa Trung Quốc. Đồng thời, ông còn cung cấp hai bức ảnh chụp cách đây bảy năm, ghi nhận ngày nay tại Du Lâm, cực Nam của Hải Nam vẫn còn các tảng đá rất to lớn ghi hàng chữ lớn: Thiên nhai hải giác (chân trời góc biển), hoặc Hải khoát thiên không (biển rộng trời không, mênh mông vô bờ bến).
Dia du do khao05.JPG
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn trình bày - Ảnh: Bảo Toàn
Dia du do khao10.JPG
Và giới thiệu về Địa dư đồ khảo - Ảnh: B.Toàn
Dia du do khao11.JPG
Báo chí rất quan tâm sự kiện này - Ảnh: B.Toàn
Sau phần trình bày của nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn, GS.Lê Mạnh Thát phát biểu, cho biết hiện tại ở các thư viện nước ngoài (như Mỹ chẳng hạn) có nhiều tư liệu quý chứng minh chủ quyền biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của VN, nên rất cần được tìm hiểu, nghiên cứu cụ thể, chính xác để đấu tranh ngoại giao về vấn đề chủ quyền.
Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Thuần, kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái cũng góp ý rằng có nhiều tài liệu cổ thư cần được nghiên cứu, công bố nhằm khẳng định chủ quyền thiêng liêng của biển đảo VN, điều mà ở nước ta chưa có một cơ quan cụ thể để thực hiện, cũng như chưa tìm được người xứng tầm, có hiểu biết để giao phó nhiệm vụ quan trọng này…
Dia du do khao13.JPG
GS.Lê Mạnh Thát phát biểu - Ảnh: Bảo Toàn
Dia du do khao14.JPG
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Thuần góp ý
Dia du do khao15.JPG
Kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái chia sẻ - Ảnh: Bảo Toàn
Kết thúc buổi công bố, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn nhấn mạnh, công bố Địa dư đồ khảo không ngoài mục đích góp phần củng cố tư liệu về chủ quyền biển đảo VN. Đồng thời, cũng ước mong, thông qua đây, sẽ có thêm nhiều tư liệu quý giá, nhất là được viết bởi chính Trung Quốc được tìm tòi để công bố, làm cơ sở đấu tranh ngoại giao về vấn đề chủ quyền VN.

Dịp này, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn cũng nhắc lại một bài viết về biển Đông của học giả người Trung Quốc Lý Lệnh Hoa (Trung tâm Thông tin Hải dương Trung Quốc), đoạn nói rõ thêm về lãnh thổ, lãnh hải Trung Quốc, phù hợp với tập sách: “Vào thời nhà Thanh (đời Hàm Phong hoặc Đồng Trị), có một chiếc tàu buôn của Pháp chở đồng đi qua vùng biển Tây Sa thì gặp cướp biển, bị cướp sạch.
Địa dư đồ khảo.jpg
Bản đồ trong Địa dư đồ khảo thể hiện Hoàng Sa, Trường Sa không phải của Trung Quốc
Theo quy tắc vận tải hàng hóa trên biển, họ phải đến gặp chính quyền sở tại để trình báo, đề nghị giúp bắt bọn cướp, đồng thời xin chính quyền nơi đó xác nhận làm bằng chứng để khi về báo cáo lại với chủ hãng và đòi bảo hiểm bồi thường. Viên thuyền trưởng người Pháp đưa tàu chạy đến cảng gần nhất là Du Lâm ở đảo Hải Nam, trình báo với tri phủ (tri huyện) địa phương.
Viên quan địa phương nói với thuyền trưởng người Pháp: “Nơi chúng ta đứng đây có tên là Thiên Nhai Hải Giác (chân trời góc biển). Đất của Thiên triều đến đây là hết rồi. Chuyện ông bị cướp ngoài biển biết là ở chỗ nào? Ông bị cướp, chúng tôi không chịu trách nhiệm, không quản được mà cũng không muốn quản”. Viên thuyền trưởng đành phải cho tàu chạy vào cảng Hải Phòng. Quan chức địa phương ở đó rất tốt, xác nhận cho ông ta, lại còn cho tàu ra chạy ngoài biển, coi như đã truy bắt cướp.
Đó là chứng cứ về kiểm soát và quản lý thực tế. Chứng cứ này nói lên: chính phủ Trung Quốc ngay từ thời triều Thanh đã không thừa nhận Tây Sa là lãnh thổ của mình, cũng không đảm trách công tác trị an ở đó. Còn chính quyền Việt Nam khi đó không những đã cho Tây Sa là lãnh thổ của mình, mà còn thực thi công tác giữ gìn trật tự ở đó. Điều đó chẳng đã chứng minh Tây Sa từ xưa đến nay đều thuộc về Việt Nam hay sao?”.
Chúc Thiệu

Thứ Bảy, 18 tháng 8, 2012

Thôn bản bốn mùa thanh bình trong tranh của Koukei Kojima

Thời gian thì vẫn cứ lặng lẽ trôi qua hờ hững. Nhưng những khoảnh khắc đẹp đi vào lòng người sẽ khó mà quên được.Họa sĩ Koukei Kojima (Nhật Bản) đã mang đến cho tôi những cảm giác thật yên bình, thanh thản trong tâm hồn qua những bức thủy mạc theo lối cổ điển. Từng vệt màu nước uống lượn, uyển chuyển đưa ta qua những vùng đồi núi chập chùng mờ ảo như tiên cảnh.

Xuân - Hạ - Thu - Đông bốn mùa cứ như những giai điệu thăng trầm chuyển biến cùng những sắc thái khác tạo nên sự đồng điệu hòa nhập giữa con người và thiên nhiên với nhau!
Mùa Xuân cây nở lộc đâm chồi trăm hoa đua nở
Mùa Hạ mùa vàng bội thu
Mùa Thu lãng mạn khắp núi đồi sắc vàng cam quyến rũ
Đông về trắng tuyết một màu
Nguồn: Net
Lời bình: Quạ Đen